Thi Văn 1 Thi Văn 2 Thi Văn 3 Thi Van 5 Thi Van 6 Thi Van 7
Viếng làng Mỹ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên)
Canh-niên trổi bước thừa nhàn, Để chơn đến viếng xóm làng Hội-Đông. Về non dạ luống ước-mong, Cám tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu. Lời thăm cùng khắp đâu đâu, Hương thôn bổn-đạo lo âu mối-giềng. Tu là tu Phật tu Tiên, Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao. Mùa xuân chưa có mưa dào, Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh. Sớm chiều phủi sạch lợi-danh, Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về. Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê, Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây.
Trang 287
Tinh-thần hiệp vén ngút mây, Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-ngươn. Lòng thương bá tánh đòi cơn, Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai. Chuông linh giục thúc bên tai, Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng. Hiệp chung một cuộc chi-lan, Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau. Lọc-lừa hiu đặng vàng thau, Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên. Duyên lành rõ được Khùng Điên, Chẳng qua kiếp trước thiện-duyên hữu phần. Làm sao khỏi chốn mê-tân, Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng. Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung, Hiền-nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay. Hội thanh hiệp mặt vui-vầy, Gắng công cố chí lòng nầy chẳng phai. Vinh-hoa dường thể cúc mai, Cuối mùa tàn-rụi lâu dài đặng đâu. Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu, Rạch tim xem được một bầu linh-quang. Mảng còn tư-lự tình-tang, Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dân. Hóa-công chí-thiện cầm cân, Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tưng. Sum vầy chiếc nhạn sâm-thương, Nho-văn cảm-kính hiền-lương của người. Se-sua nói nói cười cười, Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua. Trần-gian thiếu trái chi chua, Bây gi trái ngọt không mua bởi mình. Tới đây cạn lẽ phân-minh, Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia. Tài sơ trí siển nôm-na, Mặc tình chê ghét phận ta ta tường.
Trang 288
Thoảng qua mùi diệu phô-trương, Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân. Keo sơn đâu cật liền lưng, Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo. Mừng là mừng việc hay-ho, Lo là lo việc ốc-sò trải qua. Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca, Giác dân hướng thiện chánh tà phân-minh. Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh, Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi. Biển trần lao-lý diệu-vơi, Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi. Nhìn xem tâm não bồi-hồi, Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh-vang. Chừng nào kim phụng hòa-loan, Đông Tây vô lự mới an sự đời. Thừa vưng sắc-lịnh của Trời, Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân. Bấy lâu chạnh cám ô-ngân, Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-duơn. Dập-dồi gió kép mưa đơn, Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn. Bày ra thiên-lý héo-von, Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành. Trải qua một lúc sỏi-sành, Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây. Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây, Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn. Ngày nay đạo-đức chẳng màng, Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua.
Trang 289
Biển sông lặn-lội hơn thua, Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu. Phật, nhơn, tạo-hóa một bầu, Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau. Thân nầy sá quản cần lao, Miễn cho bá-tánh được mau an-nhàn. Ngũ niên viễn lự cơ-hàn, Đến chừng qui phục Hớn-Đàng mới yên. Bao-la cảnh Phật cõi Tiên, Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu. Ngũ vân năm sắc năm màu, Kìa qui nọ phụng lao-xao vui mừng. Vang-vầy sấm nổ chuyễn-luân, Kiểng-tiên lộ vẻ vui mừng cha con. Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn, Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than. Các nơi liệt-quốc chư-bang, Chúc cầu bình-trị trướng-loan sum-vầy. Bây giờ làm việc tà-tây, Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa. Biết khôn tìm kiếm ma-ha, Một câu lục-tự nhà nhà bình-an. Xa-xuôi đường sá dặm tràng, Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung. Lo bề cúc-dục cội thung, Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời. Bút nghiên tạm gác đợi thời, Chúc cho bá tánh xét đời biết ta.
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Trang 290
Ông NGUYỄN THANH-TÂN
( tức Hương-Thân Ướng ) xướng :
Bóng thỏ đà lu rạng mặt rồng,
Bốn phương sĩ-tử nhóm càng đông.
Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo,
Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông.
Biển lặng sông trong chờ lịnh chánh,
Nhà an nước trị lẽ thiên công.
Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật,
Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông !
ĐỨC THẦY họa :
Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng,
Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông.
Chòm ong còn múa trong the áo,
Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông.
Mặt đất địa cầu qui lập chánh,
Một nền Đạo hạnh lấy tâm công.
Văn-nhu áo-não tìm cơ-mật,
Sẽ hản việc đời hỡi núi sông !
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng :
Tiết phong một võ nhứt thân khinh,
Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.
Cực vọng nam minh dân tiếp thủy,
Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh.
Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt
Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình
Kim nhựt phùng chơn tu tận túy
Hưu tương ly biệt não bình sanh
ĐỨC THẦY đáp họa:
Hải qui thiết lượng góc nhơn khinh
Cố viễn hà qua kiến hữu tình.
Quí hóa ai thi hà quốc thủy,
Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.
Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,
Tố giả vong bang kỷ tráng trình.
Phúc họa trù phong nhiên Bính tí,
Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.
Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn
Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN tức Chín Diệm (làng Định-Yên, tỉnh Long-Xuyên) xướng:
Cưng-khấu xâm lăng kỷ thập niên, Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên ? Hi-Di ngũ quí kim an tại, Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền. Độc nhãn sa-đà tàng Bắc-địa, Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên. Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt, Dẫn lãnh minh lương trứ tổ-tiên.
* Trang 292
Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy, Hướng thiện khử tà chúng bất-tri. Vô tránh vô tranh thiên-hạ thiểu, Toàn trung toàn hiếu thế-gian hy. Ái mao vị tiện ngô đồng phụng, Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui. Bất tận tam tâm danh-lợi khách, Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi.
ĐỨC THẦY họa :
Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên, Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên. Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại, Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền. Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa, Xích mi hải hội luật trừng thiên. Vị phi minh đế đồ tôn nhựt, Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.
* * * Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy, Lượng trí bồi thành thử tất tri. Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu, Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy. Thí-sanh tán địa liên đài phụng, Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui. Vạn vật an-ninh thông điện khách, Nhứt trưng lê-thứ kiến vô bi.
* Trang 293
Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN xướng :
Gió xuân muôn vật toại lòng rồi, Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi. Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn, Trông chừng dấu nước luống ngùi-ngùi.
* * * Ngùi-ngùi trông thấy đám mây xanh, Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành. Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc, Dù ai đấp lũy nguyện bồi thành.
ĐỨC THẦY đáp :
Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi, Xa đưng nguyện-ước chuyện con tôi. Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả, Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi.
* * * Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh, Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành. Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc, Quyết lòng trợ thế với bồi thành.
* * * Bồi thành mới phải đạo văn-nhu, Có lẽ ngày kia rắn hóa cù. Lũ-lượt đàn chim bay kiếm ổ, Rán mà theo dõi bớ văn-nhu !
* * * Trang 294
Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù, Nước túng dân nghèo lại thiếu xu. Khổ, khổ thương đi luân chuyển kiếp, Phân trần cụ lão chuyện người tu.
Mỹ-Hội-Đông, đêm 22-1 Canh-Thìn
Vịnh ông ĐỊA bằng sành ( Đ tại nhà ông hai Xòn ở Vàm-Nao thuộc tỉnh Long-Xuyên )
Bảnh-chẹ ngồi chơi sướng hỡi ông ! Tâm lành sao chẳng tiếp non sông ? Nhơn-dân bốn phía đương đồ-thán, Vui sướng chi mà lại tỉnh không ?
Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23-1 Canh-Thìn *
Trang 295
Viếng làng PHÚ-AN (Châu-Đốc)
Lưng-chưng một bước lạ làng,
Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ.
Người đi lòng những ước-mơ,
Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa.
Đêm khuya còn vắng tiếng gà,
Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần.
Ô-kim vàng ấy ngàn cân,
Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn
Trăm năm ghi-tạc miễu son,
Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia.
Mặc tình tiếng nọ lời kia, Chẳng màng thế sự đặt-bia nhiều lời. Gẫm ra chuyện lạ ở đời, Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân. Xưa kia bạo-ngược nhà Tần, Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu. Ước mong rắn đặng hóa cù, Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu. Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều, Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc ai. Hưng-vong suy-thạnh xưa nay, Cuộc đi vay trả, trả vay đổi dời. Mấy ai trăm tuổi ở đời, Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh ? Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh, Lánh nơi trần tục học-hành đưng Tiên. Trả cho rồi nợ tiền-khiên, Đến ngày hiệp mặt kiểng-tiên vui-vầy. Làm sao rõ mặt tớ Thầy, Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường. Bây giờ nạn ách còn vương, Cha làm con chịu nhiều đưng gai-chông. Nhiều người kinh-sử lảu-thông, Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê. Kiếm con hiền đức dắt về, Về nơi cõi Phật Tây-Phương an-nhàn. Nợ trần con sớm liệu-toan, Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng. Thuyền từ kêu gọi ngóng trông, Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô.
Trang 296
Chừng nào thấy được cơ-đồ, Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình. Đến đây thấy cảnh sanh tình, Lòng son đòi đoạn công-trình dạy khuyên. Cứ lo chế ngạo Khùng Điên, Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau. Ngọt bùi lời Đạo thanh-thao, Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi. Vinh-hoa một bả làm mồi, Để câu kẻ dại việc tồi chất lên. Muốn mình lên đặng bực trên, Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền. Giống lành xưa cũng Rồng Tiên, Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng. Mặc tình nghe phải thì dùng, Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi. Buồn đời gác bút nghĩ suy, Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng.
* Cầu ngã kiến văn tối thậm đa, Thiện duyên tác phước ý như hà. Phô trương vạn lượng tam hài tuế, Hội thính na thi kiến thạnh hoa.
* * * Viễn lự ô hô chí Lão Bành ! Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh. Hải qui thế-giái nam hòa vọng, Nguyện dữ như hà dụng thức canh.
* * * Trang 297
Kim phụng triều vương viễn khứ đình, Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh. Duyên-do phước thọ lai duy hiển, Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh.
* * * Quang-minh diện-mục khả hồ sơ, Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ. Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng ? Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ.
(Chợ-Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ.) * Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm ( tỉnh Châu-Đốc )
Đêm vắng mà sao cảm quá dài, Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai. Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu, Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.
* * * Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền, Dậm tràng tới viếng mượn ngòi-nghiên. Tỏ tình yêu quí người lương-thiện, Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.
Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn
* * Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền, Dậm tràng tới viếng mượn ngòi-nghiên. Tỏ tình yêu quí ngưi lương-thiện, Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.
Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn
*
TỎ CÂU HUYỀN-BÍ
Đời đạo liên quan rạng chói ngời, Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi. Thanh minh đạo-đức câu huyền-bí, Mượn lấy bút nghiên tỏ ít li.
* * * Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời, Sao mà dương-thế mảng lo chơi. Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí, Đạo-đức nhiệm sâu Lão khuyến mi.
* * * Thiên sanh thiện tánh tác thì gia, Tông-tích cổ kim lượng thử hà. Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp, Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca.
* * * Đài phong liễu khước tạo Nam-gia, Thiện-chí hồ thiên thức Ngọc-tòa. Trung-sơn tế-giáng Lư-Bồng kiểng, Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.
* * * BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng, SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang. KỲ sanh tạo giả thi truyền tục, HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.
* **
Trang 299
Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên,
Nguyền thuyết thanh-danh tác thiện duyên.
Thậm-thâm tối thiểu kim tàng cốc,
Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên.
*
* *
Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
Ngã thứ trung sanh trực thế thờ.
Ngỡi khí yên hùng ghi đảm-liệt,
Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ.