Snack's 1967

Thời sự 24h.wapgem.com

giaitri24h.wapgem.com

»º♥∴☆∴♥º«
giaitri24h.wapgem.com


Bạn đang ở :
United States



Trang 287 tới 313

Thi Văn 1 Thi Văn 2 Thi Văn 3 Thi Van 5 Thi Van 6 Thi Van 7





Viếng làng Mỹ-HỘI-ĐÔNG (Long-Xuyên)

Canh-niên trổi bước thừa nhàn,
Để chơn đến viếng xóm làng Hội-Đông.
Về non dạ luống ước-mong,
Cám tình lê-thứ tuôn ròng lụy châu.
Lời thăm cùng khắp đâu đâu,
Hương thôn bổn-đạo lo âu mối-giềng.
Tu là tu Phật tu Tiên,
Tu cho rõ biết chữ hiền ra sao.
Mùa xuân chưa có mưa dào,
Cũng như Đạo hạnh sắc màu chưa thanh.
Sớm chiều phủi sạch lợi-danh,
Tầm nơi chánh-giác cõi thanh đặng về.
Hỡi ôi, thấy chúng bớt mê,
Đạo mầu siêu-việt tập-đề là đây.

Trang 287



Tinh-thần hiệp vén ngút mây,
Vẹt cho rõ mặt tớ Thầy Hạ-ngươn.
Lòng thương bá tánh đòi cơn,
Dầu ai mua oán chác hờn mặc ai.
Chuông linh giục thúc bên tai,
Chúc cầu thạnh-trị thới-lai xóm làng.
Hiệp chung một cuộc chi-lan,
Rồng đà lố bóng đá vàng biết nhau.
Lọc-lừa hiu đặng vàng thau,
Đem thân mua lấy mận đào thiên-nhiên.
Duyên lành rõ được Khùng Điên,
Chẳng qua kiếp trước thiện-duyên hữu phần.
Làm sao khỏi chốn mê-tân,
Đào-nguyên vạn lượng tỏ phân kính sùng.
Thánh-nhơn ghi sách Trung-Dung,
Hiền-nhơn thức tỉnh biết dùng người ngay.
Hội thanh hiệp mặt vui-vầy,
Gắng công cố chí lòng nầy chẳng phai.
Vinh-hoa dường thể cúc mai,
Cuối mùa tàn-rụi lâu dài đặng đâu.
Thích-Ca Đạo vị huyền-sâu,
Rạch tim xem được một bầu linh-quang.
Mảng còn tư-lự tình-tang,
Thuyền từ tới bến thanh nhàn bớ dân.
Hóa-công chí-thiện cầm cân,
Công-bình thưởng phạt thứ-dân nào tưng.
Sum vầy chiếc nhạn sâm-thương,
Nho-văn cảm-kính hiền-lương của người.
Se-sua nói nói cười cười,
Cao sâu lý-diệu vàng mười khó mua.
Trần-gian thiếu trái chi chua,
Bây gi trái ngọt không mua bởi mình.
Tới đây cạn lẽ phân-minh,
Quyết đem chơn-lý đặng gìn Phật gia.
Tài sơ trí siển nôm-na,
Mặc tình chê ghét phận ta ta tường.



Trang 288

Thoảng qua mùi diệu phô-trương,
Kêu dân mau tỉnh trong trường mộng xuân.
Keo sơn đâu cật liền lưng,
Thấy trong bá-tánh nửa mừng nửa lo.
Mừng là mừng việc hay-ho,
Lo là lo việc ốc-sò trải qua.
Tỉnh tâm mượn lấy thi-ca,
Giác dân hướng thiện chánh tà phân-minh.
Rèn lòng giữ dạ sắt-đinh,
Đừng phai đừng lợt thân mình thảnh-thơi.
Biển trần lao-lý diệu-vơi,
Khổ tâm chắt lưỡi chiều mơi phủi rồi.
Nhìn xem tâm não bồi-hồi,
Sơ nhi đã lậu phá mồi vinh-vang.
Chừng nào kim phụng hòa-loan,
Đông Tây vô lự mới an sự đời.
Thừa vưng sắc-lịnh của Trời,
Cùng ông Phật-Tổ giáo đời khuyên dân.
Bấy lâu chạnh cám ô-ngân,
Bây giờ hiệp mặt phân-trần sạ-duơn.
Dập-dồi gió kép mưa đơn,
Đau thương vì bởi nghĩa ơn chẳng tròn.
Bày ra thiên-lý héo-von,
Giấu trong tim-óc lòng son chẳng đành.
Trải qua một lúc sỏi-sành,
Trung-Ương hòa-hiệp mới đành lòng đây.
Hoàn-cầu trái-đất chuyển xây,
Gớm-ghê cho chúng phơi thây muôn ngàn.
Ngày nay đạo-đức chẳng màng,
Rồi sau dẫu có tiền ngàn khó mua.



Trang 289

Biển sông lặn-lội hơn thua,
Tự thân tạo lấy mà mua cái sầu.
Phật, nhơn, tạo-hóa một bầu,
Kẻ thanh người trược mới hầu khác nhau.
Thân nầy sá quản cần lao,
Miễn cho bá-tánh được mau an-nhàn.
Ngũ niên viễn lự cơ-hàn,
Đến chừng qui phục Hớn-Đàng mới yên.
Bao-la cảnh Phật cõi Tiên,
Tòng mai liễu trúc hữu duyên khoe màu.
Ngũ vân năm sắc năm màu,
Kìa qui nọ phụng lao-xao vui mừng.
Vang-vầy sấm nổ chuyễn-luân,
Kiểng-tiên lộ vẻ vui mừng cha con.
Bấy lâu nghĩa nọ tiêu mòn,
Ngày nay hiệp mặt hết còn thở-than.
Các nơi liệt-quốc chư-bang,
Chúc cầu bình-trị trướng-loan sum-vầy.
Bây giờ làm việc tà-tây,
Ngày sau bị khốn tội rày điêu-ngoa.
Biết khôn tìm kiếm ma-ha,
Một câu lục-tự nhà nhà bình-an.
Xa-xuôi đường sá dặm tràng,
Khó bề lui tới rỗi nhàn lao-lung.
Lo bề cúc-dục cội thung,
Nghe lời Thầy dạy việc chung của đời.
Bút nghiên tạm gác đợi thời,
Chúc cho bá tánh xét đời biết ta.



Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn



Trang 290



Ông NGUYỄN THANH-TÂN

( tức Hương-Thân Ướng ) xướng :

Bóng thỏ đà lu rạng mặt rồng,

Bốn phương sĩ-tử nhóm càng đông.

Trời Nghiêu phụng múa vòng tay áo,

Đất Thuấn voi cày ruộng trổ bông.

Biển lặng sông trong chờ lịnh chánh,

Nhà an nước trị lẽ thiên công.

Kìa ai gói-gấm lời cơ-mật,

Ức bụng kẻ hiền bớ núi sông !

ĐỨC THẦY họa :

Non Lịch rừng nhu lộ vẻ rồng,

Danh hiền bao rải khắp Tây-Đông.

Chòm ong còn múa trong the áo,

Nam-Việt giống nòi trổ nhụy bông.

Mặt đất địa cầu qui lập chánh,

Một nền Đạo hạnh lấy tâm công.

Văn-nhu áo-não tìm cơ-mật,

Sẽ hản việc đời hỡi núi sông !



Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn


Ông NGUYỄN THANH-TÂN xướng :

Tiết phong một võ nhứt thân khinh,

Háo đạo thơ sanh cảm khốc tình.

Cực vọng nam minh dân tiếp thủy,

Tường khan bắc chỉ thạch tranh vinh.

Mộng hồi cố quốc tam canh nguyệt

Tỉnh khởi cô bang vạn lý trình

Kim nhựt phùng chơn tu tận túy

Hưu tương ly biệt não bình sanh

ĐỨC THẦY đáp họa:



Hải qui thiết lượng góc nhơn khinh

Cố viễn hà qua kiến hữu tình.

Quí hóa ai thi hà quốc thủy,

Đài phi sơn lãnh vị thành vinh.

Phù vân lộ thức nhiên âm nguyệt,

Tố giả vong bang kỷ tráng trình.

Phúc họa trù phong nhiên Bính tí,

Trùng lai hữu nhựt tại hoài sanh.



Mỹ-Hội-Đông, ngày 22-1 Canh-Thìn



Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN tức Chín Diệm
(làng Định-Yên, tỉnh Long-Xuyên) xướng:



Cưng-khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại-đức giáng, hà Tiên ?
Hi-Di ngũ quí kim an tại,
Thái-Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc nhãn sa-đà tàng Bắc-địa,
Liên mi chơn mạng ẩn Nam-thiên.
Phòng ngư xích vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ-tiên.



*
Trang 292

Tổ-tiên cứu loạn hựu phò nguy,
Hướng thiện khử tà chúng bất-tri.
Vô tránh vô tranh thiên-hạ thiểu,
Toàn trung toàn hiếu thế-gian hy.
Ái mao vị tiện ngô đồng phụng,
Tiết giác thâm tàng trạch thủy qui.
Bất tận tam tâm danh-lợi khách,
Đáo đầu thâm mãnh niệm từ-bi.

ĐỨC THẦY họa :

Thiên ký Lạc-Hồng đắc ngũ niên,
Sơn-Trung hồi giả bí danh tiên.
Trần-nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Vị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.


*
* *
Kỷ tiên hữu nhựt ngã đình nguy,
Lượng trí bồi thành thử tất tri.
Võ kỷ hùng phong nhơn mạt thiểu,
Thần-Tiên tiểu ẩn cổ lai hy.
Thí-sanh tán địa liên đài phụng,
Nam-sĩ bài kỳ phục kiết qui.
Vạn vật an-ninh thông điện khách,
Nhứt trưng lê-thứ kiến vô bi.



*
Trang 293


Ông NGUYỄN KỲ-TRÂN xướng :

Gió xuân muôn vật toại lòng rồi,
Nghĩ lại bâng-khuâng đạo Chúa tôi.
Cá phụ vẫy-vùng trong dấu cạn,
Trông chừng dấu nước luống ngùi-ngùi.

*
* *
Ngùi-ngùi trông thấy đám mây xanh,
Thoạt vậy mưa tuôn đượm nhánh nhành.
Thẩm đến rừng nhu tơi vật sắc,
Dù ai đấp lũy nguyện bồi thành.

ĐỨC THẦY đáp :

Đạo-đức truyền ban cũng chửa rồi,
Xa đưng nguyện-ước chuyện con tôi.
Mưa tuôn vừa tiết ngư thong-thả,
Dạ thảm lòng vui cũng bắt ngùi.


*
* *
Bắt ngùi cho kẻ bạc đầu xanh,
Sum-hiệp cùng nhau cội nhánh nhành.
Gặp lúc tiết hòa mưa đượm sắc,
Quyết lòng trợ thế với bồi thành.


*
* *
Bồi thành mới phải đạo văn-nhu,
Có lẽ ngày kia rắn hóa cù.
Lũ-lượt đàn chim bay kiếm ổ,
Rán mà theo dõi bớ văn-nhu !


*
* *
Trang 294

Văn-nhu vẹt phá sụp ao tù,
Nước túng dân nghèo lại thiếu xu.
Khổ, khổ thương đi luân chuyển kiếp,
Phân trần cụ lão chuyện người tu.


Mỹ-Hội-Đông, đêm 22-1 Canh-Thìn


Vịnh ông ĐỊA bằng sành
( Đ tại nhà ông hai Xòn ở Vàm-Nao thuộc tỉnh Long-Xuyên )

Bảnh-chẹ ngồi chơi sướng hỡi ông !
Tâm lành sao chẳng tiếp non sông ?
Nhơn-dân bốn phía đương đồ-thán,
Vui sướng chi mà lại tỉnh không ?



Mỹ-Hội-Đông, sáng ngày 23-1 Canh-Thìn
*

Trang 295

Viếng làng PHÚ-AN (Châu-Đốc)

Lưng-chưng một bước lạ làng,

Viếng thăm khắp chốn luận bàn huyền-cơ.

Người đi lòng những ước-mơ,

Một câu đạo-hạnh lỡ ngờ chuyện xa.

Đêm khuya còn vắng tiếng gà,

Bút nghiên tạm lấy tờ hoa tố-trần.

Ô-kim vàng ấy ngàn cân,

Dương-gian muốn đổi lập thân cho tròn

Trăm năm ghi-tạc miễu son,

Trung-quân ái-quốc hãy còn danh bia.

Mặc tình tiếng nọ lời kia,
Chẳng màng thế sự đặt-bia nhiều lời.
Gẫm ra chuyện lạ ở đời,
Kẻ ngu người trí nhiều lời phân-vân.
Xưa kia bạo-ngược nhà Tần,
Đem lòng hung-ác giết lần văn-nhu.
Ước mong rắn đặng hóa cù,
Đồng tâm hiệp trí chữ tu dắt-dìu.
Lòng hiền giữ vẹn sớm chiều,
Xem kinh niệm Phật mỹ-miều mặc ai.
Hưng-vong suy-thạnh xưa nay,
Cuộc đi vay trả, trả vay đổi dời.
Mấy ai trăm tuổi ở đời,
Được như Bành-Tổ mà rời lợi danh ?
Quyết lòng tầm kiếm cõi thanh,
Lánh nơi trần tục học-hành đưng Tiên.
Trả cho rồi nợ tiền-khiên,
Đến ngày hiệp mặt kiểng-tiên vui-vầy.
Làm sao rõ mặt tớ Thầy,
Tới chừng trăng rọi đài mây mới tường.
Bây giờ nạn ách còn vương,
Cha làm con chịu nhiều đưng gai-chông.
Nhiều người kinh-sử lảu-thông,
Mà không sửa tánh bởi lòng còn mê.
Kiếm con hiền đức dắt về,
Về nơi cõi Phật Tây-Phương an-nhàn.
Nợ trần con sớm liệu-toan,
Nghĩa-nhơn trọn-vẹn mới an tấm lòng.
Thuyền từ kêu gọi ngóng trông,
Trông cho dân-chúng bớt lòng tham-ô.



Trang 296

Chừng nào thấy được cơ-đồ,
Nhơn vô viễn lự gia vô nhơn đình.
Đến đây thấy cảnh sanh tình,
Lòng son đòi đoạn công-trình dạy khuyên.
Cứ lo chế ngạo Khùng Điên,
Ngày sau chịu mãi chữ phiền chữ đau.
Ngọt bùi lời Đạo thanh-thao,
Đời còn mê-muội chừng nào mới thôi.
Vinh-hoa một bả làm mồi,
Để câu kẻ dại việc tồi chất lên.
Muốn mình lên đặng bực trên,
Hãy lo rèn đúc mới nên Thánh-Hiền.
Giống lành xưa cũng Rồng Tiên,
Ngày nay hung ác đảo-điên khắp cùng.
Mặc tình nghe phải thì dùng,
Chớ đừng bỉ-bạc kẻ Khùng làm chi.
Buồn đời gác bút nghĩ suy,
Suy cho cạn lẽ sầu-bi quá chừng.


*
Cầu ngã kiến văn tối thậm đa,
Thiện duyên tác phước ý như hà.
Phô trương vạn lượng tam hài tuế,
Hội thính na thi kiến thạnh hoa.


*
* *
Viễn lự ô hô chí Lão Bành !
Nhơn thì sanh dưỡng khí tồn thanh.
Hải qui thế-giái nam hòa vọng,
Nguyện dữ như hà dụng thức canh.


*
* *
Trang 297

Kim phụng triều vương viễn khứ đình,
Bài hồi phong nhã lạc trầm thinh.
Duyên-do phước thọ lai duy hiển,
Thủ đảnh thư hùng thục sử-kinh.


*
* *
Quang-minh diện-mục khả hồ sơ,
Nhứt diệu phù-vân phú-quới cơ.
Quân-tử Thánh-nhơn hà đại lượng ?
Liên hồng vạn thứ cảnh thiên-thơ.

(Chợ-Vàm (Phú-An), ngày 23 tháng giêng Canh-Thìn, tại nhà Hương-Hào Phỉ.)
*
Cho Thầy ba THẬN ở làng Phú-Lâm
( tỉnh Châu-Đốc )

Đêm vắng mà sao cảm quá dài,
Văn-nhu lão trưởng tiếng bi-ai.
Tầm nơi yếu lý câu huyền-diệu,
Thương thảm cho đời thưởng huệ mai.


*
* *
Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền,
Dậm tràng tới viếng mượn ngòi-nghiên.
Tỏ tình yêu quí người lương-thiện,
Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.


Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn


* *
Đoái tưởng lòng ông quá đỗi hiền,
Dậm tràng tới viếng mượn ngòi-nghiên.
Tỏ tình yêu quí ngưi lương-thiện,
Trông đợi ngày kia khỏi xích-xiềng.



Phú-An, tối 23 tháng giêng Canh-Thìn

*

TỎ CÂU HUYỀN-BÍ

Đời đạo liên quan rạng chói ngời,
Trần-hoàn biển khổ thẳm vơi-vơi.
Thanh minh đạo-đức câu huyền-bí,
Mượn lấy bút nghiên tỏ ít li.


*
* *
Hồng-Lạc giống xưa rất tuyệt vời,
Sao mà dương-thế mảng lo chơi.
Sớm chiều tự liệu rèn tâm trí,
Đạo-đức nhiệm sâu Lão khuyến mi.


*
* *
Thiên sanh thiện tánh tác thì gia,
Tông-tích cổ kim lượng thử hà.
Sư giả hạ trần nhơn mạt kiếp,
Ngã hồi dương-thế thuyết huyền ca.


*
* *
Đài phong liễu khước tạo Nam-gia,
Thiện-chí hồ thiên thức Ngọc-tòa.
Trung-sơn tế-giáng Lư-Bồng kiểng,
Giác tỉnh sanh kỳ tối diệu đa.

*
* *
BỬU ngọc mai danh ẩn nhục tràng,
SƠN đài hồ-hải luyện tứ phang.
KỲ sanh tạo giả thi truyền tục,
HƯƠNG giải thao tồi thị Bảo-giang.


*
**

Trang 299

Ngũ hồ ly cấu tạn hài tiên,
Nguyền thuyết thanh-danh tác thiện duyên.
Thậm-thâm tối thiểu kim tàng cốc,
Đa giả khứ hồi giải nghiệp-duyên.


*
* *
Canh tràng dạ đoản, đoản canh sơ,
Ngã thứ trung sanh trực thế thờ.
Ngỡi khí yên hùng ghi đảm-liệt,
Hà giang lương thố vẽ thiên-cơ.



* *
Khởi điệu tầm vương Phật cổ hồi,
Vạn năng sĩ-tử hiệp hòa ngôi.
Tam-thanh truyện tích ghi biên tự,
Khán giả tận-tường liệt võng khôi.


*
* *
Canh niên viễn lự tối thi thần,
Kê thủ nhứt tràng vạn địch nhân.
Nam thức quân thần cuồng lão-sĩ,
Châu nhi phục thỉ cổ đồng lân.


*
* *
BỬU kiến trừng tâm dụng thể tiên,
SƠN sanh giả kế chưởng huyền thiên.
KỲ thâm hạ giái ly đài nguyệt,
HƯƠNG vị trầm thinh bí kỷ niên.



Phú-An, đêm 23-1 Canh-Thìn



Trang 300



Cho ông PHAN THANH-LONG

Long rày năm mới thiệt là rồng,

Mèo-mả bạc-bài bỏ được không ?

Hiệu, Khuynh cùng gã mau liền lại,

Kẻo để ngày sau chịu não-nồng.



Trường học Phú-An, ngày 24-1 Canh-Thìn



*

DIệT TIỀN KHIÊN



Bồng-Lai như khứ khổ nan truyền,

Cảm tác quyền hồ tố thiện duyên.

Quốc-thủy đài chương trung liệt cổ,

Trần-gian ngã đáo diệt tiền khiên.



*

Vạn lý trưng đồ mộ nhứt sơn,

Danh tiên liễu bá định hồi yên.

Vị phi lai tục đa ưu lự,

Sơn hải điền viên tất tảo nan.



Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn

*

ĐỂ CHƠN ĐẤT BẮC



Để chơn đất Bắc Thầy trò,

Dân còn quê kịch hát hò nghêu-ngao.

Xóm làng Đồng-Thạnh xôn-xao,

Cùng nhau bàn-tán khác nào trong Nam.



Trang 301



Chúng dân tựu ngũ tùng tam,

Kẻ ma người mị kẻ ham người cười.

Làng nầy đông-đúc nhiều người,

Dân tình cũng được đôi mươi tu-hành.

Nhiều người già cả lòng lành,

Có nhiều kỳ-lão biết rành tích xưa.

Tới đâu cũng ít người ưa,

Nằm lăn ca hát sớm trưa dỗ-dành.

Trưng bày tích cũ đành-rành,

Thiên-cơ đạo-đức tu-hành phận tôi.

Dân quê nghe nói hỡi ôi !

Hung-đồ cường nghịch một hồi cười reo.

Đâu đây mà có hùm beo,

Khéo bày bá-láp nghe theo làm gì ?

Thấy trong lê-thứ cũng kỳ,

Đi đâu cũng bị dân thì ghét vơ.

Ngày đầu nhiều kẻ còn mơ,

Trị chơi ít bịnh ngẩn-ngơ xóm diềng.

Cũng không thèm trọng bạc tiền,

Quyết lòng tìm kiếm người hiền mà thôi.

Bắc-kỳ dân ít mép-môi,

Cũng còn cúng kiếng chè xôi ê-hề.

Thương dân nên chịu nặng-nề,

Lời ăn tiếng nói nhiều bề thấp cao.

Tớ thầy nào nệ cần-lao,

Thương dân dạy-dỗ xiết bao nhọc-nhằn.

Ngũ-luân lễ nghĩa năm hằng,

Tam cang trung-trực người rằng ngu-si.

Viết ra mới bốn bài thi,

Đặng cho trần thế biết thì Thần Tiên.

Cũng xưng rằng hiệu Khùng Điên,

Nh¡c ra nhiều khúc Rồng-Tiên Hồng-Bàng.



Trang 302



THƠ rằng :



Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn,

Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn.

Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,

Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.



*

* *

Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần,

Cổ quán thôn-hương nhứt dị-nhân.

Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa,

Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.



*

* *

Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền,

Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.

Kiển-sám truyền danh lưu hậu thế,

Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên.



*

* *

Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà,

Cổ súy lương thần vị phong ca.

Thọ tử tâm trung trưng hùng khí,

Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa.



*

Bốn bài thơ đã làm xong,

Văn-nho bàn-bạc nhiều ông lắc đầu.

Nghĩ ra mới biết cơ cầu,

Người chi thi-phú công-hầu cổ nhơn.



Trang 303



Nghiệm suy lời lẽ thiệt hơn,

Dặn-dò bá tánh thi ơn xóm làng.

Nào ta có nói bướng càn,

Về An-Giang tỉnh rõ ràng ai hay.

Từ đây Nam Bắc chuyển quay,

Khi đây khi đó ra tài khuyên dân.

Tuần-huờn tạo-hóa cầm cân,

Ở đây cũng dạy hương-lân đủ điều.

Xác nghèo nhà tợ cái lều,

Cơ-hàn rách rưới nhiều điều nan nguy.

Tuy là gia-trạch hàn-vi.

Nhưng mà hiền-đức khác gì người xưa.

Nhiều người lối xóm đẩy-đưa,

Tấm lòng không mến mà ưa bề ngoài.

Nước tràn ruộng lúa lạc-loài,

Bắt đầu lo chuyện miệt-mài bắp khoai.

Giáo-truyền lời lẽ thẳng ngay,

Hương-lân trùm-trưởng đắng cay nhiều bề.

Thầy trò ra sức làm hề,

Ca tuồng ly-loạn dựa kề biên-cương.

Có nhiều chệt khách Minh-hương,

Đau lòng nhiều khúc thê-lương bên Tàu.

Chú lùn Nhựt-Bổn hùng-hào,

Chẳng thương sanh-mạng dân Tàu dại ngu.

Bởi chưng hung-bạo chẳng tu,

Cho nên gây sự lu-bù chiến-tranh.

Bắc-kỳ Trung-Quốc giáp ranh,

Sao không xem đó tu-hành hiền-lương.

Cá không ăn muối cá ươn,

Chẳng nghe lời dạy lâm đường chông gai.



Trang 304



Hát tuồng Trung-Quốc quá dai,

Ta bèn bỏ bản hát bài tà-tinh.

Cả kêu lớn nhỏ đệ-huynh,

Từ đây nhẫn-nại chống kình làm chi.

Bút nghiên lôi lại làm thi,

Đặng cho sanh-chúng bớt nghi tinh-tà.



*

Cổ qui tài tận hận do Tần,

Thiện chí tu trì lập vĩ thân.

Tồn tại hư vô tầm Bát-Nhã,

Tiên kiếm thần thông chỉ huy cần.



*

* *

Điền tan gia phế tế nhiên hàn,

Khổ đáo ly kỳ ảo viễn cang.

Nghị xuất Thần Tiên yên truyền đạo,

Bần phú cơ đồ bất tự sang.



*

* *

Nôn nảy kìa ai nhọc mưu cầu,

Thê-thảm cho đi nẻo huyền sâu.

Kiên-cố của tiền thiên đạo-lý,

Cấp hồi ái truất trót canh thâu.



*

* *

Thiên ý bất tư hoạnh trữ tài,

Biên hình liên huệ tất ư giai.

Kiệm kỷ tha lam mi hài-chí,

Long trì phi ẩn tạo kiền khai.



*

* *

Ngạo cảnh du vân triện B¡c-hà,

Quá khứ trú đình vịnh ngân ca



Trang 305



Thanh tích cổ nhân tân cừ khí,

Nghiên tòng bí khuyết bích-lư xa.



*

Thâm canh bất mến công hầu,

Trông cho lê-thứ gặp chầu vinh-huê.

Ở đâu dân cũng còn mê,

Tham câu danh lợi khó kề Thần Tiên.

Tư lương một mối sầu riêng,

Long thiền đãi ảnh vị thiên cô phần.

Ngảnh ngao tái chí thi ân,

Biện-minh chí hứng đền lân dựa kề.



*

Huy-hoàng hương nến tự thiên chi,

Hội kiến truyền linh thuyết vĩnh kỳ.

Lôi chất khai âm vô sắc thí,

Ngại hồi bi hiện án tiền phi.



*

Rừng thông bên cạnh gần kề,

Bôn-phi lê-thứ nhiều bề gian-nan.

Bắc-kỳ còn hỡi hò khoan,

Chúng dân đi cấy reo vang ruộng đồng.

Thấy đi cũng luống động lòng,

Xứ quê nghèo cực muỗi mòng thiếu chi.

Dạo miền thành-thị một khi,

Chán-chê thế sự sầu-bi trong lòng.

Ca xang thảm cảnh não-nồng,

Cả kêu dân-chúng Lạc-Hồng hỡi ơi !

Giống xưa Tiên cảnh tuyệt vi,

Ngày nay đã lạc đạo đi nhuốc-nhơ.

Ngưi hiền nghe thấu ngẩn-ngơ,

Đớn đau sắp đến bơ-vơ một mình.

Trang 306



Muốn xem được hội Long-Đình,

Thì dân hãy rán sửa mình cho trơn.

Ở ăn cho vẹn mười ơn,

Cảnh tình hiền-đức gặp cơn khải-hoàn.

Gắng công khỏi buổi nghèo-nàn,

Sum-vầy một cuộc Hớn đàng toại thay.

Người nào vẹn được thảo ngay,

Dựa kề cửa Thánh đài mây an-nhàn.

Khuyên răn cuối xóm cùng làng,

Giàu sang nắm giữ của ngàn làm chi.

Việc đi nhiều nỗi sầu-bi,

Hạ-nguơn đã hết loạn-ly cơ-đồ.

Bây gi còn hỡi mờ-hồ,

Chẳng nghe dạy chỉ cơ-đồ về sau.

Thử xem cho biết vàng thau,

Tình yêu sanh chúng chẳng nao tấc lòng.

Tu hiền như thể phụng rồng,

Mắt nhìn Tiên cảnh mây hồng toại thay.

Bây giờ rán chịu đắng cay,

Ngày sau mới biết mặt mày Khùng Điên.

Đạo đi nào có tư riêng,

Minh-Vương sửa trị mới yên ngôi Trời.

Xa-xăm các chỗ các nơi,

Đâu đâu cũng rán nghe lời tiên-tri.

Kẻ hung ngạo-nghễ khinh khi,

Nữa sau đến việc sầu-bi nhiều bề.

Tớ Thầy non núi dựa kề,

Cũng tìm am cốc liệu bề dạy khuyên.

Quyết lòng rửa sạch tiền-khiên,

Ra oai ra lực hùng-yên mới là.



Trang 307



Bây gi còn liệu tây tà,

Cho nên đạo-đức khó mà cạn phân.

Nam-thiền báu ngọc châu trân,

Phật Tiên phân định tấm thân mới nhàn.



*

Duyên sự đê-mê cảnh Hớn-đàng,

Lần dò cho thấu nẻo Tiên-bang.

Xuê-xang mấy king nhìn sương gió,

Lòn cúi chờ trông lúc khải-hoàn.



*

* *

Mê-man danh-lợi cõi hồng-trần,

Có một hội nầy lập lấy thân.

Nếu để trễ chầy e chẳng kịp,

Khuyên ai khuya sớm g¡ng chuyên-cần.



*

* *

Huyền-vi cơ Đạo kiến linh kỳ,

Tự thán dương-trần tốc kham bi.

Vô vị phi liên tâm phế kỷ,

Điểm hồng nê địa tự thiên chi.



*

Chừng nào thấy được phụng-hoàng,

Rồng chầu chớp nháng Hớn-đàng hiển-vinh.

Sớm chiều rèn đúc kỉnh-tinh,

Ngày sau mới thấy phép linh của Trời.

Ai ai cũng ở trong đời,

Chốn nào không Đạo là đời vô liêm.

Xét suy cho cạn cổ kim,

Hết tâm bền chí rạch tim xem nhìn.

Ta đây ưa ghét mặc tình,

Dương-gian cứ mãi chống-kình làm chi.



Trang 308



Chừng nào thượng-cổ hồi-qui,

Thế-trần mới hết khinh-khi Phật Trời.

Tu hành đạo-đức rao mời,

Như người ngu dại với đời loạn-ly.

Ở sao cho biết tôn-ti,

Dể-ngươi Phật Thánh sầu-bi mãn đời.

Khùng-Điên ẩn-nhẫn tùy thời,

Có cơn giả dạng dắt đời hạ-nguơn.

Mặc tình ai nói thiệt hơn,

Thấp cao tai tiếng làm ơn cho đi.

Luân phiên Thầy Tớ tách vi,

Chẳng nài lao-lý miễn đi bình-an.

Tiếng đờn hò líu cống xang,

Đêm khuya khuyên nhủ khắp tràng chúng-sanh

Buổi nay nhằm lúc vắng thanh,

Lời ta khuyên đó như cành ghẹo chim.

Trau giồi đúng bực thanh-liêm,

Nữa sau mới biết thành kim đền đài.

Việc đi nhiều lúc khôi-hài,

Quyết lòng cho thế một bài học hay.

Chuyển miền Nam địa lung-lay,

Nam Trung cùng Bắc một tay giáo đời.

Thiếu ai mà bị réo mời,

Đầu trên xóm dưới thỉnh mời liên-thinh.

Trớ-trêu phải mượn kệ kinh,

Mặc tình dân-sự biện-minh lẽ nào.



THI



Thâm-trầm đạo-đức quá thanh-thao,

Rừng-rú kệ-kinh cắt khoen rào.



Trang 309



Rước đưa sanh-chúng rời bể ái,

Thử-thét cho cùng cạn thấp cao.



*

* *

Liên lụy trần mê b ái-hà,

Bỗng xuất thoàn tình mượn thi ca.

Th-thống Thần Tiên kiên bế chí,

Tương đồng sanh-chúng gội ma-ha.



*

* *

Si lung á giá tọa phú hào,

Tiên kiến hậu hiền quí kỷ cao.

Thố tử hồ bi ghi chí hứng,

Đại-đồng Đạo cả khắp trùm bao.



*

* *

Toan ly bể khổ, khổ tới à !

Dân-sự an-nhàn sướng dữ a !

Ta mảng lòng lo gìn sanh-chúng,

Gội nhuần ân-đức vịnh phong ca.



*

* *

Ma-ha thoàn nhỏ đã dọn rồi,

Chèo lái trương bườm chớ thả trôi.

Bến giác bờ mê, mê phải tránh,

Ly-biệt hồng trần hỡi ai ôi !



*

* *

Liên-hoa chín phẩm ở ngọc tòa,

Được lịnh Thiên-Hoàng nấy sai ta.

Hạ-giái dạy khuyên truyền đạo-lý,

Giả dạng Điên-Khùng mượn thi ca.



*

* *

Trang 310



Ham vui đào mận chẳng xong rồi,

Trung hiếu giữ-gìn phận con tôi.

Thế-sự bao la ta chẳng quản,

Tiên-cảnh non Bồng sẵn vị-ngôi.



*

* *

Nước non náo-nức giống nòi Hồng,

Gắng chí kiếm tìm chủ-nhơn ông.

Tuổi trẻ đầu xanh khoanh tay rế,

Liệu-lượng thâm tình tợ biển sông.



*

* *

Thay cảnh đổi lòng nỗi biệt-ly,

Muốn gặp bảng son với linh-kỳ,

Noi sức bình-sanh quanh nước lửa,

Có một ngày chờ hội ứng thi.



*

* *

Hồn thơ Tiên Thánh sánh Đạo mầu,

Chẳng thấy việc đi mảng góp thâu.

Tóm tắt ít lời âu diệt chủng,

Thế-sự mê hồn lụy song mâu.



*

* *

Cha nọ bồng con vợ khóc òa,

Tan nát xóm-diềng khổ dữ a !

Nhà không kẻ ở, ôi ! nói trước,

Nếu chẳng tin lời gặp thiết-tha.



*

* *

Lời xưa di tích rõ việc nầy,

Ai muốn mắt phàm gặp Rồng Mây.

Hãy rán nghe lời ta mách trước,

Không gìn đạo-đức phải phơi thây.



Trang 311



Thương dân xuống bút tay đề,

Dặn-dò bá-tánh chớ hề lợt-phai.

Cuộc thế-giới chuyển lay như chóng,

Khuyên dân tình hãy lóng mà nghe.

Lam-kiều hữu lộ vắng hoe,

Ngục môn không cửa mà hè nhau đi.

Thảm cho trẻ hài-nhi lịu-địu,

Vợ xa chồng bận-bịu thê-lương.

Phong trần dày-dạn gió sương,

Chư bang ham báu hùng-cưng đua tranh.

Còn một cuộc chiếu manh giành xé,

Khắp hoàn-cầu ó-ré một nơi.

Dòm xem châu ngọc chiều mơi,

Sao đi không sớm tách rời cõi mê.

Để đến việc thảm-thê, thê-thảm,

Mắt phàm-trần tường-lãm bi-ai.

Cũng đồng cốt-nhục hoài thai,

Nên ta rán sức miệt-mài dạy khuyên.

Thơ với phú Thần Tiên giáng bút,

Bởi cơ tri đà thúc bên lưng.

Không tu chừng khổ cũng ưng,

Tu-hành gặp cảnh vui mừng toại thay !



*

Hoàng hôn tái sắc chuyển luân tài,

Nhựt dạ yêu đi chỉ quá dai.

Tỏ thuyết huyền-vi sanh-chúng rõ,

Năng kỳ liên huệ tất biền lai.



*

* *

Tư lương đeo đuổi giấc mộng sầu,

Bớ hỡi dương trần khá liệu âu.



Trang 312



Nước lửa đến chưn, ôi ! khó nhảy,

Co giò phóng riết lọt ngoài sâu.



*

* *

Huyền cơ đạo-hạnh hãy rán tầm,

Đi cùng Tiên Phật dụng nhơn tâm.

Ngàn năm Thích Đạo đành chôn lấp,

Thương tưởng bá-gia nỗi lạc-lầm.



*

Cảnh thảm khổ chiều mai sẽ đến,

Sao dân còn tríu-mến trần-mê ?

Mắt nhìn ngoại quốc thảm-thê,

Nam-bang cảnh khổ cũng kề bên tai.

Cuộc biến động nay mai nguy ngập,

Một hội nầy rán lập thân danh.

Kìa kìa các bực công khanh,

Miễu son tạc đ đành rành chẳng sai.

Đất với nước hậu lai vinh-diệu,

Đạo lo tròn yu-điệu tấm thân.

Một câu quân lý tứ ân,

Ta đừng phai-lợt phong-thần bảng ghi.



Hòa-Hảo, tháng giêng năm Canh-Thìn

( Chép theo bổn chánh của Đức Thầy do Đức Ông giữ )



*

GIỌNG KHÀN

Lập chí giác dân đến giọng khàn,

Cảm tình bổn-đạo ngặt li khan.

Tạm ngưng lý-lẽ trong đôi bữa,

Xin chớ bỏ qua rất muộn-màng.



*

* *

Trang 313



Muộn-màng chơn-lý khó bằng an,

Thế thái trần mê giải mộng tràng.

Hỡi giống Tiên-Rồng mau mở mắt,

Kiếm tìm đạo-lý lánh hùm lang.

Hòa-Hảo, tháng 2 năm Canh-Thìn



[trang chủ|Phật giáo|tin mới|Chat|plog|3G Media|Wapmaster]
Copyright © 2008 by giaitri24h.wapgem.com All rights reverved to Phu Thanh , Tam Nong Dong Thap . Pro